Chẳng phải
tự dưng mình cắc cớ hỏi vậy. Con nít 10 tuổi hỏi đấy. Tối hôm qua, mình đón cô
út từ Nhà văn hoá Thiếu nhi về, nghe “nàng” thông báo: ”thứ sáu này con được
nghỉ học. Giỗ Tổ Hùng Vương. À, hôm qua ba đọc báo có nói người ta giỗ tổ… Lạc
Long Quân. Thế Việt Nam mình có mấy ông tổ hở ba ?”. Mình tắc tị !
Ừ nhỉ? Nếu cứ như báo đài đưa tin thì Việt Nam mình có mấy ông Tổ nhỉ? Sỡ dĩ mình hỏi như thế là vì hai hôm liền 19/4 & 20/4, các báo đài đồng loạt đưa tin: Dâng hương Giỗ Quốc Tổ Lạc Long Quân.Thế mới có chuyện con gái mình hỏi: Việt Nam mình có mấy… ông Tổ ?
Ừ nhỉ? Nếu cứ như báo đài đưa tin thì Việt Nam mình có mấy ông Tổ nhỉ? Sỡ dĩ mình hỏi như thế là vì hai hôm liền 19/4 & 20/4, các báo đài đồng loạt đưa tin: Dâng hương Giỗ Quốc Tổ Lạc Long Quân.Thế mới có chuyện con gái mình hỏi: Việt Nam mình có mấy… ông Tổ ?
Cũng như mọi người, chuyện Lạc Long Quân & Âu Cơ sinh ra 100 con từ bọc trăm trứng. Năm mươi con theo Bố lên rừng. Năm mươi con theo Mẹ xuống biển. Từ đó mới hình thành nên trăm tộc người Việt gọi là Bách Việt. Đó là truyền thuyết. Truyền thuyết thì do dân gian truyền miệng từ đời này sang đời khác mà nên. Không phải được ghi lại bằng sử sách hay chứng tích gì.
Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ và bọc trăm trứng trăm con là cách lý giải sự ra đời và hình thành cội nguồn con người các dân tộc Việt ngày nay của thời đại người Việt cổ hay trung cổ, khi chưa có khoa học phát triển như bây giờ.
Chắc chắn những ai là con dân Việt, đều biết câu ca dao: “dù ai đi ngược về xuôi/ nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Đó là ngày giỗ các Vua Hùng. Nơi giỗ là vùng đất cổ Hương Sơn (Phú Thọ) còn lưu giữ Chùa Hương Tích và đền thờ các Vua Hùng.
Vì sao ngày giỗ các Vua Hùng lâu nay được coi là giỗ Tổ ? Các nhà sử học nói rằng, chính thời đại các Vua Hùng mới có sự hình thành NHÀ NƯỚC (VĂN LANG). Còn trước đó chỉ là các bộ tộc bộ lạc rãi rác khắp vùng lúa nước ven Tây Thái Bình Dương này. Từ đó, người ta coi Nhà nước Văn Lang là cội nguồn của nước Việt Nam ngày nay. Vì thế, ngày giỗ các Vua Hùng, mùng 10 tháng Ba lịch ta được coi là giỗ Tổ. Người dân Việt khắp nơi ghi nhận ngày giỗ Tổ đó dễ có đến cả mấy ngàn năm nay.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tại Đền Hùng, Bác Hồ căn dặn vệ quốc quân Đại đoàn Quân Tiên phong về tiếp quản Thủ Đô Hà Nội với lời dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải giữ lấy nước”, cũng là cách Nhà nước Việt Nam mới thời Cụ Hồ gián tiếp ghi nhận các Vua Hùng là người lập nước đầu tiên, xứng đáng là ông Tổ của Việt Nam ngày nay,
Đến con cháu các đời Vua Hùng thời nay lại lý luận bằng phương pháp luận… suy diễn mà rằng: nếu không có Lạc Long Quân thì làm gì có các Vua Hùng ? Tại sao lại không có đền thờ Lạc Long Quân ?
Có lẽ họ không phân biệt được truyền thuyết khác với lịch sử chăng ? Cứ luận theo họ thì các Vua Hùng là ông Tổ của Việt Nam. Còn Lạc Long Quân truyền thuyết là bố các ông Tổ. Nói nôm na là… Tổ bố ! Thế thì phải tạo ra đền thờ Tổ bố và tượng để thờ “Tổ… bố” chứ !
Nói là làm, năm 2007, người ta tạo ra một… dự án rồi dựng nên một ngôi đền trong khu vực Chùa Hương. Gọi là đền thờ… cha của các vua Hùng: Lạc Long Quân. Ông Tổ… bố ! (Chẳng biết căn cứ vào hình hài ở đâu để có tượng Tổ bố nhỉ ?)
Năm ngoái, sau 2 năm xây dựng người ta rùm beng làm lễ khánh thành đền thờ Lạc Long Quân (28/03/2009). Đủ các quan chức đến dự. Trước đó người ta đã cho đúc pho tượng ông Tổ… bố rồi (họ gọi là tượng “Quốc Tổ Lạc Long Quân”) tiến hành ngày 07/02/2009 tại khu vực đền Hùng. Rồi làm lễ “dâng hương” Tổ bố ngày mùng 6-3 Âm lịch (19/4/2010).
Còn tại sao lại là ngày mùng 6-3 thì chỉ có Trời mới biết ? Từ nay người ta sẽ “ăn giỗ” ông Tổ bố (Lạc Long Quân) vào ngày mùng 6 tháng Ba lịch ta và “ăn giỗ” các ông Tổ con (Vua Hùng) ngày mùng 10 tháng Ba.
Hợp lý nhỉ ? Chả nhẽ cúng Tổ bố lại sau ngày Tổ con ? Nếu cứ theo báo chí và đài phát thanh nhà nước các cấp thì ngày mô, 6-3 hay 10-3 cũng Quốc Tổ cả ! Rồi đây, người ta đưa ra Quốc Hội hợp thức hoá và quyết luôn những ngày giỗ các Quốc Tổ. Khi đó bà con ta tha hồ mà được nghỉ lễ cả tuần ! Sướng nhé !
***
Vậy thì có gì là đáng bàn nào ? Tốn tiền bạc ư? Không thành vấn đề. Khi đã “phú quý thì sính lễ nghĩa” thôi. Các cụ dạy thế. Lại thêm có đền có tượng từ nay có thêm điểm để hốt bạc… lẻ nhé ! Làm ăn phải thế chứ ! Thì cũng như Tây đó thôi. Cậu Rô-mê-ô và cô Giu-li-ét từ văn học bước ra cuộc sống và mang tiền về cho nước Anh thì đã sao?
Vấn đề ở đây là từ một truyền thuyết dân gian, các nhà sử học mấy chục đời nay chưa có cơ sở để chứng minh hay làm sáng tỏ ông Tố bố là ai. Nay nó được “hợp thức hoá” bằng các quyết định “hành chính nhà nước”. Rồi cái truyền thuyết gắn liền với những huyền sử mơ màng chàng Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung. Hai chàng Sơn Tinh – Thủy Tinh đánh nhau để giành cháu gái ông Tổ bố trong các trang sách thiếu nhi đã bước ra đời sống hiện đại sau mấy ngàn năm, mấy chục ngàn năm tại vùng đất cổ Phú Thọ.
Thế mới có chuyện con trẻ học lớp 3 lớp 4 lại cắc cớ hỏi bố mẹ. “Việt Nam mình có mấy ông Tổ ? Mình đang lo ngày mai, con mình lại hỏi. “Tại sao chỉ cúng Lạc Long Quân mà không cúng Âu Cơ hở ba ?
Ừ nhỉ ? Không có Tổ bà thì lấy đâu có “trăm trứng” để mà có con đàn chắt đống ngày nay ? Tổ bố có bằng thánh cũng đố rặn được trăm trứng ! Biết đâu, nay mai Hội Phụ nữ Việt Nam lại lên tiếng đấu tranh và phê phán các ông mà rằng: “đến như giỗ Tổ mà còn trọng nam khinh nữ” !
Ôi thôi thôi ! Rắc rối quá đi ! Mà khó trả lời con trẻ quá !
Các câu hỏi đó đâu phải nêu ra ở giữa cuộc hội thảo khoa học lịch sử để mà lý giải bằng các công trình khảo cứu sử học, trình bày chứng cứ khảo cổ, chứng mình bằng kỷ thuật các bon đồng vị 16, 18 hay 21 ?
Các câu hỏi đó cũng đâu phải nêu ra trên các tạp chí khoa học, các diễn đàn chính thức và không chính thức để mà các chuyên gia quốc tế quốc nội khắp nơi bàn luận mổ xẻ ?
Có nhà quản lý văn hoá nào; có nhà sử học nào; có thầy giáo dạy sử nào,… sau khi chứng kiến tham dự các lễ hội “khánh thành” “dâng hương”, “rước tượng” Tổ nêu trên đã bao lần tự hỏi : Việt Nam mình có mấy ông Tổ ?
Với mình, là ông bố, sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh kéo dài hơn phần tư thế kỷ. Thoát đựợc chiến tranh đã là may mắn nói chi đến có được trình độ uyên thâm về lịch sử khảo cổ, lý luận học, chính trị học lô gíc học,… để mà trả lời ngay cho đứa trẻ lên 10 bằng một câu đơn giãn ?
Thôi thì để khỏi “lo bò trắng răng”. Mình xin nợ con mình câu hỏi: Việt Nam mình có mấy ông Tổ ? Nhưng chắc chắn các nhà sử học, các nhà quản lý cũng nợ các thế hệ trẻ thuộc dòng máu Lạc Hồng câu hỏi: VIỆT NAM ƠI, MÌNH CÓ MẤY ÔNG TỔ ?
Nguồn : TẠI ĐÂY
LỜI BÀN CỦA HUỲNH UY DŨNG
Hùng Vương là biểu tượng của Quốc Tổ nước ta, mà Hùng Vương có những mười tám(18) đời, mỗi đời lại có đôi, có ba, có bốn… Chi, (hay có thể nói ngược lại: Hùng Vương có mười tám (18) Chi, mỗi Chi lại có đôi, ba, bốn đời), mà cũng phải như vậy mới được. Vì thời kì lịch sử Hùng Vương kéo dài đến những hai sáu hai một (2621) năm. Nếu không gồm chứa nhiều Chi hoặc nhiều đời thì thực khó mà giải thích.
Vậy, tóm lại Hùng Vương với mười tám (18) đời, là biểu tượng của Quốc Tổ nước ta. Ngày nay về mặt văn tự, ta không có gì để chứng minh, nhưng qua những Chi Chi và đặc biệt là qua những truyền thuyết, chúng ta có thể hình dung ra một thời kì các Vua Hùng ấy. Đó là một cái gì rất đẹp, rất khỏe, rất thơ và rất đạo. Đặc biệt là qua những chuyện cổ tích. Trong đó ẩn giấu những thông điệp của tổ tiên Hồng Lạc
Mười tám chi ấy như sau:
CHI CÀN
Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) lên ngôi năm 41 tuổi. Tại ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879-TCN) đến năm Đinh Hợi (2794- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng.
Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) lên ngôi năm 41 tuổi. Tại ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879-TCN) đến năm Đinh Hợi (2794- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng.
CHI KHẢM
Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825-TCN) lên ngôi năm 33 tuổi. Chi này tại ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương. Từ năm Mậu Tý (2797- TCN) đến năm Bính Thân (2525-TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế ( Ngũ Đế).
Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825-TCN) lên ngôi năm 33 tuổi. Chi này tại ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương. Từ năm Mậu Tý (2797- TCN) đến năm Bính Thân (2525-TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế ( Ngũ Đế).
CHI CẤN
Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân Lang, sinh năm Canh Ngọ (2570- TCN), lên ngôi khi 18 tuổi, các đời vua đều xưng là Hùng Quốc Vương, tại ngôi tất cả 272 năm. Từ năm Đinh Tỵ (2524- TCN). Ngang với Trung Quốc thời Đế Thuấn, Đế Nghiêu.
Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân Lang, sinh năm Canh Ngọ (2570- TCN), lên ngôi khi 18 tuổi, các đời vua đều xưng là Hùng Quốc Vương, tại ngôi tất cả 272 năm. Từ năm Đinh Tỵ (2524- TCN). Ngang với Trung Quốc thời Đế Thuấn, Đế Nghiêu.
CHI CHẤN
Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 TCN). Đều xưng là Hùng Hoa Vương, tại ngôi tất cả 342 năm từ năm Đinh Hợi (2254 TCN) đến năm Mậu Thìn (1913- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ
CHI TỐN
Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030- TCN) lên ngôi khi 59 tuổi đều xưng là Hùng Hy Vương, tại ngôi tất cả 200 năm. Từ năm Kỷ Tỵ (1713- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Qúy ( Kiệt ) nhà Hạ
Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030- TCN) lên ngôi khi 59 tuổi đều xưng là Hùng Hy Vương, tại ngôi tất cả 200 năm. Từ năm Kỷ Tỵ (1713- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Qúy ( Kiệt ) nhà Hạ
CHI LY
Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740- TCN) lên ngôi khi 29 tuổi. Truyền hai đời vua, tại ngôi tất cả 81 năm, đều xưng là Hùng Hồn Vương. Từ năm Kỷ Sửu (1712- TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Đinh nhà Thương.
Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740- TCN) lên ngôi khi 29 tuổi. Truyền hai đời vua, tại ngôi tất cả 81 năm, đều xưng là Hùng Hồn Vương. Từ năm Kỷ Sửu (1712- TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Đinh nhà Thương.
CHI KHÔN
Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Qúy Tỵ (1768- TCN) lên ngôi khi 18 tuổi. Truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, tại ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631- TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Qúy Tỵ (1768- TCN) lên ngôi khi 18 tuổi. Truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, tại ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631- TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương.
CHI ĐOÀI
Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469- TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, tại ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431- TCN) đến năm Kỷ Dậu ( 1332- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469- TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, tại ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431- TCN) đến năm Kỷ Dậu ( 1332- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương.
CHI GIÁP
Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375- TCN) lên ngôi khi 45 tuổi. Truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, tại ngôi tất cả 80 năm, từ năm Canh Tuất(1331-TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1252- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375- TCN) lên ngôi khi 45 tuổi. Truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, tại ngôi tất cả 80 năm, từ năm Canh Tuất(1331-TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1252- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
CHI ẤT
Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287-TCN). Truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 90 năm. Từ năm Canh Ngọ (1251-TCN) đến năm Kỷ Hợi (1162- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287-TCN). Truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 90 năm. Từ năm Canh Ngọ (1251-TCN) đến năm Kỷ Hợi (1162- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân.
CHI BÍNH
Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang sinh năm Canh Tuất (1211- TCN) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Trinh Vương, tại ngôi tất cả 107 năm. Từ năm Canh Tý (1161- TCN) đến năm Bính Tuất (1055- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang sinh năm Canh Tuất (1211- TCN) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Trinh Vương, tại ngôi tất cả 107 năm. Từ năm Canh Tý (1161- TCN) đến năm Bính Tuất (1055- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu.
CHI ĐINH
Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105- TCN) lên ngôi khi 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, tại ngôi tất cả 86 năm. Từ năm Đinh Hợi (1054- TCN) đến năm Nhâm Tuất (965- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105- TCN) lên ngôi khi 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, tại ngôi tất cả 86 năm. Từ năm Đinh Hợi (1054- TCN) đến năm Nhâm Tuất (965- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
CHI MẬU
Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982- TCN), lên ngôi khi 23 tuổi, truyền năm đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, tại ngôi tất cả 115 năm. Từ năm Qúy Hợi (968- TCN) đến năm Đinh Mùi (853- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982- TCN), lên ngôi khi 23 tuổi, truyền năm đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, tại ngôi tất cả 115 năm. Từ năm Qúy Hợi (968- TCN) đến năm Đinh Mùi (853- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu.
CHI KỶ
Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894- TCN) lên ngôi khi 42 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, tại ngôi tất cả 99 năm. Từ năm (853 đến 755- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.
Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894- TCN) lên ngôi khi 42 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, tại ngôi tất cả 99 năm. Từ năm (853 đến 755- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu.
CHI CANH
Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Qúy Sửu (748- TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, tại ngôi tất cả 94 năm. Từ năm Đinh Hợi (754- TCN) đến năm Canh Thân (661- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Qúy Sửu (748- TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, tại ngôi tất cả 94 năm. Từ năm Đinh Hợi (754- TCN) đến năm Canh Thân (661- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu.
CHI TÂN
Hùng Tạo Vương, húy Đức Lang Quân, sinh năm Kỷ Tỵ (712- TCN). Truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 92 năm. Từ năm Tân Dậu (660- TCN) đến năm Nhâm Thìn (569- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu.
Hùng Tạo Vương, húy Đức Lang Quân, sinh năm Kỷ Tỵ (712- TCN). Truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 92 năm. Từ năm Tân Dậu (660- TCN) đến năm Nhâm Thìn (569- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu.
CHI NHÂM
Hùng Nghi Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576- TCN), lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, tại ngôi tất cả 160 năm. Từ năm Qúy Tỵ (568- TCN) đến năm Nhâm Thân (409- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu.
Hùng Nghi Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576- TCN), lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, tại ngôi tất cả 160 năm. Từ năm Qúy Tỵ (568- TCN) đến năm Nhâm Thân (409- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu.
CHI QUÝ
Hùng Duệ Vương, húy Huệ Lang sinh năm Canh Thân (421- TCN) lên ngôi khi 14 tuổi, truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 150 năm. Từ năm Qúy Dậu (408- TCN) đến năm Qúy Mão (258- TCN). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.
Hùng Duệ Vương, húy Huệ Lang sinh năm Canh Thân (421- TCN) lên ngôi khi 14 tuổi, truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 150 năm. Từ năm Qúy Dậu (408- TCN) đến năm Qúy Mão (258- TCN). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét