Khuất
Nguyên (340-278 TrCN) là nhân vật lỗi lạc thời cổ đại Trung Hoa cả về
cuộc đời, nhân cách và nghệ thuật thơ ca. Ông là danh nhân văn hóa thế
giới (1953).
Tên thật là Bình.
Ông là quan đại phu của nước Sở (tỉnh Hồ Nam). Xuất thân từ dòng dõi
vương tộc nhưng đã sa sút từ đời cha, gần hàng thứ dân. Sử gia Tư Mã
Thiên nhận xét “Khuất Nguyên học rộng nhớ nhiều, sáng suốt về chính trị,
thông thạo về hiến lệnh” Ông sớm được vua Sở trọng dụng, cân nhắc lên
hàng lương đống của triều đình (chức Tả tư đồ, dưới Lệnh doãn – Tể
tướng). Đối nội, Khuất Nguyên chủ trương cải cách xã hội bằng những biện
pháp nhằm hạn chế đặc quyền của bọn đại quý tộc, chủ trương “cân nhắc
người hiền, trao quyền cho người có tài năng”; đối ngoại, chủ trương
liên Tề chống Tần. Khuất Nguyên bị đả kích kịch liệt vì điều đó mâu
thuẫn với đường lối quyền lợi của bọn đại thần.
Khuất Nguyên
Thuở đó - thời Chiến
quốc, tình trạng xâu xé nhau giữa 6 nướcTần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Yên đã
đi đến chỗ quyết định. Sở từ chỗ cường thịnh đi đến chỗ bại vong, nguy
cơ bị Tần thôn tính. Dao động, bất lực và ngu muội, nghe theo lời xúc
xiểm của bọn nịnh thần gian tham Tử Lan, Ngận Thượng và sủng cơ Trịng Tụ
bị quân thù mua chuộc mà phản bội, lại mắc mưu ly gián của bọn gián
điệp Trương Nghi, Sở Hoài vương dần dần bỏ rơi Khuất Nguyên, cách chức
Tả tư đồ, thậm chí còn đày ông đi Hán Bắc (298 TrCN). Sau đó, được gọi
về. Nước Sở một phen nguy ngập. Khuất Nguyên chỉ rõ địch – ta, thù-bạn,
hiền tài-gian đảng cùng phương cách cứu nước, do đó nước Sở tai qua nạn
khỏi. Sau khi Sở Hoài vương bỏ mạng ở đất Tần bởi tình nguyện làm con
tin, Khoảnh Tương vương lên nối ngôi. Tình hình chính trị Sở càng thối
nát, suy yếu. Nghe lời xúi dục của Lệnh doãn Tử Lan, Ngận Thương, Tương
vương đày ông về Giang Nam. Ông qua hồ Động Đình, vượt vùng sông Nguyên,
sông Tương, đến mãi tận sông Mịch La. Khi nước Sở bị Tần diệt đúng như
lời tiên tri của ông, tướng Tần là Bạch Khởi công phá kinh thành Sính
của Sở. Đau xót quá, Khuất Nguyên uất ức buộc đá vào cổ dìm mình xuống
sông Mịch La, mong lấy cái chết thức tỉnh triều đình và dân chúng. Đó
là trưa (ngọ) ngày 5-5 âl năm 278 TrCN.
Về sau, để tưởng nhớ
một vị đại thần và nhà thơ yêu nước trung trinh, hàng năm cứ vào ngày
5-5-âl, toàn dân Trung Quốc tổ chức ăn tết đặt tên là Tết Đoan Ngọ để
tưởng niệm Khuất Nguyên. Ở tỉnh Hồ Nam trở thành một ngày hội thật sự :
trống dong cờ mở đua thuyền vang rộn cả một quãng sông Mịch La nơi trước
đây Khuất Nguyên trầm mình. Ở Việt Nam ngày đó ta cũng thờ cúng dưới
cái tên Tết Đoan Ngọ, có nơi như miền Trung biến tướng thành Tết Giết
Sâu Bọ tức là giết bọn quan lại sâu dân mọt nước..
Tết Đoan Ngọ trên sông Mịch La
Khuất Nguyên để lại cho đời một giai thoại thú vị về SAY - ĐỤC; TỈNH - TRONG
Chuyện kể rằng: nghe
lời dèm pha của Cận Thượng cùng lũ gian thần, Sở vương nổi giận đuổi
Khuất Nguyên ra khỏi vương triều. Khuất Nguyên, quần áo xốc xếch thất
thểu đi bên bờ sông, thân thể khô đét, mặt mày phờ phạc. Ông vừa đi vừa
hát, than khóc cho số phận bất hạnh của nước Sở nay mai. Những lời cay
đắng khóc thương này đã nẩy sinh ra tập thơ Ly Tao bất hủ.
Chợt một ông lão đánh cá trông thấy, kêu lên:
- Có phải Tam lư Đại phu đó không ? Trời ơi ! Làm sao ra nông nỗi này?
Khuất Nguyên bi phẫn:
- Đời đục cả, riêng một mình ta trong; mọi người say cả, chỉ mình ta tỉnh. Ta bị đuổi chỉ vì có thể.
Lão ngư phủ bàn góp:
- Thánh nhân xưa nay xử sự uyển chuyển không câu nệ, biết việc tùy thời. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục ngầu một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say nốt ? Việc gì phải lo xa, nghĩ sâu để đến nỗi bị xua đuổi, thân tàn ma dại ?
- Có phải Tam lư Đại phu đó không ? Trời ơi ! Làm sao ra nông nỗi này?
Khuất Nguyên bi phẫn:
- Đời đục cả, riêng một mình ta trong; mọi người say cả, chỉ mình ta tỉnh. Ta bị đuổi chỉ vì có thể.
Lão ngư phủ bàn góp:
- Thánh nhân xưa nay xử sự uyển chuyển không câu nệ, biết việc tùy thời. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục ngầu một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say nốt ? Việc gì phải lo xa, nghĩ sâu để đến nỗi bị xua đuổi, thân tàn ma dại ?
Bị xúc phạm, Khuất Nguyên cãi:
- Tôi nghe mới gội đấu, tất phải chải mũ, mới tắm tất phải thay quần áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch để cho vật dơ bẩn dính vào mình, chẳng thà nhày xuống sông Tương (1) vùi xác trong bụng cá, cớ chi đang trắng lôm lốp để vấy phải bùn nhơ ?
Ông lão đánh cá nghe xong tủm tỉm cười, quay thuyền chèo đi, hát bâng quơ:
- Tôi nghe mới gội đấu, tất phải chải mũ, mới tắm tất phải thay quần áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch để cho vật dơ bẩn dính vào mình, chẳng thà nhày xuống sông Tương (1) vùi xác trong bụng cá, cớ chi đang trắng lôm lốp để vấy phải bùn nhơ ?
Ông lão đánh cá nghe xong tủm tỉm cười, quay thuyền chèo đi, hát bâng quơ:
Sông Tuơng nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt sạch cái lèo mũ ta
Sông Tương nước đục phù sa
Thời ta lội xuống để mà rửa chân.
Thì ta đem giặt sạch cái lèo mũ ta
Sông Tương nước đục phù sa
Thời ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, chèo đò đi thẳng, không ngoái cổ lại. Khuất nguyên lòng đầy cay đắng đứng sững nhìn theo (2)
*
Sau cái chết bi
tráng của Khuất Nguyên, Tống Ngọc - nhà thơ đương thời làm bài phú nổi
tiếng “Chiêu hồn”gọi hồn thầy mình hãy về dương gian đừng bơ vơ lạc lõng
nơi đầu sông ngọn sóng. Về sau, trên 2.000 năm khi đi sứ qua Mịch La,
sứ thần nhà thơ Nguyễn Du đã viết bài “Phản chiêu hồn” (Chống lại bài
chiêu hồn) của Tống Ngọc. Tống Ngọc chiêu hồn Khuất Nguyên về, Nguyễn Du
khuyến đừng về. Vì sao ? Bởi người đời sau ai ai cũng đều là Thượng
Quan Ngận Thương, mặt đất đâu đâu cũng đều là sông Mịch La đầy cá rồng,
thú dữ. Bọn gian thần đứng ngồi như các bậc hiền giả, lên xe xuống
ngựa, nói năng toàn là giọng đạo đức ông Cao ông Quỳ, che giấu vuốt nanh
cùng nọc độc, nhưngg nhai xé thịt người ngọt xớt như đường. Hồn mà về
chẳng có gì tốt đẹp nơi đây cả, cá sấu thuồng luồng không xơi thì lũ
người thú kia cũng xâu xé…Nguyễn Du đã nhìn thấu cõi đời nhơ bẩn xấu xa,
thối nát đâu đâu thời nào cũng đầy rẫy bọn tham quan ô lại độc ác, phản
nước hại dân. Bài thơ là một kiệt tác giàu chất hiện thực phê phán và
đầy tính nhân văn.
Phản Chiêu hồn
Hồn hề! Hồn hề! Hồn bất quy?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh[1] thành trung lai hà vi ?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ[2].
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! Hồn hề! Suất thử đạo
Tam Hoàng[3] chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La[4],
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà? Chống lại bài Chiêu hồn
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh[1] thành trung lai hà vi ?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ[2].
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! Hồn hề! Suất thử đạo
Tam Hoàng[3] chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La[4],
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà? Chống lại bài Chiêu hồn
Hồn ơi! Sao chẳng trở về?
Ðông tây nam bắc chở che chốn nào?
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn,
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau.
Thành đây, dân cũ còn đâu,
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa.
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ,
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần.
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm,
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon!
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm,
Toàn những người gầy ốm xanh xao.
Hồn ơi! Lối ấy theo nhau,
Ðời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời.
Thu tinh thần về nơi Thái cực,
Chớ về đây người chực mỉa mai.
Thượng quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! Hồn hỡi! Hồn mà làm sao?
Nguyên tác và bản dịch bài thơ :
Ðông tây nam bắc chở che chốn nào?
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn,
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau.
Thành đây, dân cũ còn đâu,
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa.
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ,
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần.
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm,
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon!
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm,
Toàn những người gầy ốm xanh xao.
Hồn ơi! Lối ấy theo nhau,
Ðời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời.
Thu tinh thần về nơi Thái cực,
Chớ về đây người chực mỉa mai.
Thượng quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! Hồn hỡi! Hồn mà làm sao?
Nguyên tác và bản dịch bài thơ :
Ghi chú :
1. Yên thuộc đất Sở, Dĩnh (hay Sính) là kinh đô của Sở, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc.
2 Cao, Quỳ là hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn.
3 Có thuyết cho đây là ba vị vua Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế thời cổ đại.
4 Mịch La là khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La, nay ở phía bắc huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam, sau còn gọi là sông Khuất Đàm vì Khuất Nguyên tự trầm ở đấy.
2 Cao, Quỳ là hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn.
3 Có thuyết cho đây là ba vị vua Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế thời cổ đại.
4 Mịch La là khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La, nay ở phía bắc huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam, sau còn gọi là sông Khuất Đàm vì Khuất Nguyên tự trầm ở đấy.
*
Bạn đọc thấy đấy, những người yêu nước vĩ đại như Khuất Nguyên luôn được nhân loại hai ngàn ba trăm năm nay tưởng nhớ, biết ơn còn như bọn gian thần Ngận Thượng, Trịnh Tụ, Tử Lan bán nước cầu vinh, đều bị nhân dân muôn đời nguyền rủa.
Thương Dân Dân đội lên thờ,
Hại Dân Dân đái ngập mồ cho coi.
ST & GT
Bạn đọc thấy đấy, những người yêu nước vĩ đại như Khuất Nguyên luôn được nhân loại hai ngàn ba trăm năm nay tưởng nhớ, biết ơn còn như bọn gian thần Ngận Thượng, Trịnh Tụ, Tử Lan bán nước cầu vinh, đều bị nhân dân muôn đời nguyền rủa.
Thương Dân Dân đội lên thờ,
Hại Dân Dân đái ngập mồ cho coi.
ST & GT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét