Quê hương mỗi người chỉ một- Như là chỉ một Mẹ thôi- Quê hương nếu ai không nhớ- Sẽ không lớn nổi thành người

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

NHÀ THƠ TỐ HỮU - PHẦN I





Chân dung nhà thơ

Sinh năm 1920 tại làng Phù Lai, gần cố đô Huế, Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành, làm thơ khá sớm. Mười tám tuổi, ông có thơ đăng. Cùng năm đó, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4-1939, ông bị địch bắt. Tháng 3-1942, ông vượt ngục Đác Glây, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Thanh Hóa. Cách mạng Tháng Tám, ông làm Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Huế. Năm 1946, tập thơ đầu tay Thơ ra đời (sau đổi là Từ ấy) tập hợp các bài thơ viết từ 1937 đến 1946, chia làm ba phần "Máu lửa" (27 bài), "Xiềng xích" (30 bài) và "Giải phóng" (14 bài).

Ba chặng thơ là ba chặng hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Chặng đầu là cái nhìn hiện thực, tố cáo xã hội đương thời, gắn với lòng say mê lý tưởng xóa áp bức bất công, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, nhân ái. Chặng thứ hai là thơ tù, những bài thơ xuất sắc của một tâm hồn chiến sĩ đa cảm với một bút pháp thơ tài năng. Chặng cuối là thơ vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa và cách mạng thành công, những bài thơ say đắm, sôi sục và hào hùng.

Cách mạng tự hào có trong đội ngũ của mình một thi sĩ có tầm cỡ khai sáng cho cả nền thơ trữ tình cách mạng. Tố Hữu, vinh dự là ngay từ các bài thơ đầu, đã mang tình cảm người chiến sĩ cách mạng. Thơ Tố Hữu, khi ấy, về nghệ thuật, ông có những nét tương đồng với Thơ mới. Tương đồng về bút pháp và tương đồng ngay cả việc hướng cảm xúc vào cái Tôi cá thể. Nhưng cái tôi của Tố Hữu ngược hẵn với cái tôi của Thơ mới. Với Tố Hữu Tôi đã là con của vạn nhà, trong khi cái tôi Thơ mới: Ta là một, là riêng, là thứ nhất

Không có ai bè bạn nổi cùng ta
Ta bỏ đời và đời cũng bỏ ta.


Chính vì vậy, Tố Hữu, là người đầu tiên mang vào thơ Việt Nam một phẩm chất mới: chất trữ tình riêng tư của người cộng sản ở đấy có sự hòa trộn của đời công và đời tư - cái riêng tư của nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu là sự nghiệp cách mạng.
Tố Hữu rất tinh tế, tinh tế như các nhà thơ tài năng của phong trào Thơ mới khi diễn đạt những biến động tinh tế của tình cảm con người trước cuộc đời. Chỉ có khác cuộc đời ở Tố Hữu là chiến đấu, là tù tội, là chiến thắng.

Có thể nói, những thành tựu mà thơ ca đương thời đạt được, đều tìm thấy trong Từ ấy. Tố Hữu sử dụng những thành tựu ấy vào một hướng cảm xúc khác, một nội dung tư tưởng khác đến cách xây dựng hình ảnh. Đây là hình ảnh con thuyền in bóng trên mặt nước phẳng lặng của sông Hương. In cả ảnh, in cả âm điệu:

Trên dòng Hương giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương Giang.


Và cái âm điệu mà các tác giả Thơ mới mang vào tiếng Việt tạo nên sức gợi cảm gần như là thần bí cũng ẩn hiện trong bút pháp của nhà thơ - chiến sĩ này. Đây cảnh một rừng chiều, đi đày ở Tây Nguyên, âm điệu đã trở thành tâm trạng:

Thông reo bờ suối rì rào
Chim chiều chiu chít ai nào kêu ai


Hãy nhớ lại thi đàn Việt Nam những ngày đầu cách mạng ấy càng thấy Từ ấy quả là một mùa gặt bội thu. Với Từ ấy, Tố Hữu lấy lại lòng tin vào đường lối văn học cách mạng cho cả nhà văn lẫn bạn đọc. Với Từ ấy, Tố Hữu khẳng định phẩm chất thẩm mỹ mới của thơ Việt Nam.

Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, thơ Tố Hữu với các bài Phá đường, Bầm ơi... cùng với thơ ca của phong trào quần chúng sáng tác điển hình là thơ bộ đội mà hồi đó người ta gọi là thơ đội viên đã trở thành một gợi ý có sức thuyết phục về phương pháp sáng tác hiện thực - lấy cuộc sống thực tế làm cốt lõi của thơ, hướng cảm xúc của công chúng vào những tình cảm cao cả đánh giặc cứu nước.
Tập thơ Việt Bắc là tiếng hát của toàn dân kháng chiến. Lời thơ bình dị, gần với lời ăn tiếng nói của công nông binh đánh giặc. Với Việt Bắc, tố Hữu đã đi từ tâm tình cá thể đến tâm tình của cộng đồng. Nhà thơ phát hiện và biểu dương những tình cảm cao cả của người dân thường. Chủ đề của thơ là lòng yêu nước. Đề tài của thơ là cuộc sống đánh giặc. Tác động của thơ là xây dựng tình cảm yêu nước, hy sinh chiến đấu. Với Việt Bắc, hình ảnh người dân thường yêu nước được khắc họa và trở thành biểu tượng mỹ học cho một giai đoạn thơ ca.

Năm 1954, miền bắc hoàn toàn giải phóng, những kế hoạch 5 năm xây dựng đất nước được triển khai.
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Nào đâu thác nhảy cho điện quay chiều.

Tập thơ Gió lộng thể hiện nỗi niềm phấn chấn của người xây dựng đất nước: Gió lộng đường khơi rộng đất trời. Thời kỳ này, thơ Tố Hữu cũng lộng gió, gió của tâm hồn, sức bay cao của nghệ thuật. Thơ Tố Hữu có sức ôm trùm bề thế và nghệ thuật thơ, vào điểm đỉnh của ông với Em ơi Ba Lan, Mẹ Tơm, Người con gái Việt Nam, Tiếng chổi tre... Thơ Tố Hữu lúc này trở thành một động lực tinh thần tác động tới đời sống xã hội rộng lớn.

Ra trận là tập thơ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ông vẫn giữ được giọng thơ đằm thắm. Đề tài mở rộng như đánh dấu những sự kiện chính trị, quân sự của đời sống. Có Lá thư Bến Tre, có lời dặn của anh Trỗi, có kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du, có ngọn lửa Mo-ri-xơn, có nước mắt khóc Bác Hồ...
Tố Hữu có khuynh hướng khái quát thời đại. Ông hướng tới những tình cảm phổ quát, cộng hưởng được với nhiều lòng người. Đề tài rất thời sự mà ý thơ thấm thía, sâu, bền. Cái tài phát hiện chất thơ trong cuộc đời, trong những vấn đề chính trị là một đặc sắc của thơ Tố Hữu. Sau ba câu hô Hồ Chí Minh muôn năm của Nguyễn Văn Trỗi, Tố Hữu hạ một lời bình luận:
Phút giây thiêng anh gọi Bác ba lần
Bài Mẹ Suốt, cũng là hình ảnh người dân thường anh hùng nhưng ý thơ hàm súc hơn so với bài Bà má Hậu Giang, và cho thấy một chặng đường phát triển của tâm hồn người Việt Nam ta. Tính biểu tượng được đẩy cao hơn mà bài thơ vẫn giữ nét sinh động vốn có của đời sống. Phẩm chất nhân dân trong thơ Tố Hữu ngày càng sâu sắc và nhuần nhuyễn.

Tập thơ gần đây nhất của Tố Hữu là tập Một tiếng đàn. Ông vẫn thủy chung với nguồn đề tài của đời sống cách mạng, của toàn đất nước. Đôi khi tưởng chạm tới một điều gì riêng tư của tuổi cuối đời nhìn lại.
Đêm cuối nằm riêng một ngọn đèn ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bút pháp nội tâm, rất gần với thời kỳ Từ ấy. Có một sự đấu tranh nội tâm rất mạnh. Mới bảy mươi sao đã gọi là già. Bút pháp không tung hoành hào sảng nhưng mà trầm xuống trong chiêm nghiệm. Phẩm chất phấn đấu nội tâm vốn có của Tố Hữu vẫn nguyên vẹn. Lắng nghe trong Một tiếng đàn thấy bóng dáng một Tố Hữu của Con cá chột nưa.
Cuộc đời không phải lúc nào cũng ở thế thuận. Tuy vậy, ở Tố Hữu vẫn lấy niềm tin, lấy kinh nghiệm cuộc sống của mình mà nhìn hiện tại Nắng tự lòng ta cứ ấm dần. Dù có phải làm lại từ đầu, ông không nhượng bộ, không đầu hàng hoàn cảnh. Trong cái bình đạm của giọng thơ, có sức rắn lại của ý chí
Ta lại đi, như từ ấy ra đi
Lòng hăm hở tưởng như mình trẻ lại.

Tố Hữu là con chim đầu đàn vạch hướng cho cả nền thơ. Tư tưởng tiên tiến của thời đại cách mạng, lòng yêu sâu thẳm đối với nhân dân được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật tinh xảo.
Có những giai đoạn thơ Tố Hữu thành chỗ dựa tâm hồn cho mọi người. Ông đã kinh qua nhiều chức vụ quan trọng của Đảng, của Nhà nước: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ.
Thơ đối với ông là phương tiện để phục vụ cách mạng. Nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn ông là nỗi niềm người chiến sĩ cách mạng. Ông còn đóng góp nhiều ý kiến về quan điểm, phương thức xây dựng nền văn nghệ. Ông bàn về nghệ thuật cũng là bàn về cách mạng, bàn về sự đóng góp của văn học nghệ thuật vào sự nghiệp chung.

Đằng sau Nhà thơ chính trị

Vào thập kỷ cuối 1950, khi đám Nhân văn Giai phẩm bị đánh tới tấp không còn một mảnh giáp che thân, thơ Tố Hữu bỗng nổi lên như một hiện tượng lạ trong nền văn hoá nước nhà. Sừng sững, xum xuê, tươi tốt, trường tồn - không tác giả nào bằng ...
Sau thập kỷ 80 .Tổng bí thư Nguyễn văn Linh hô hào "cởi trói" cho cánh nhân văn giai phẩm. Một loạt tác phẩm trước kia không được phát hành đã trở lại đúng vị trí của nó và độc giả yêu thơ có cơ hội tìm đọc thỏa lòng khao khát . Việc giảm đi số lượng độc giả yêu thơ Tố Hữu cũng là lẽ đương nhiên. Các đề thi của các trường đại học, các sách do các nhà xuất bản in cũng vắng dần đề tài Tố Hữu.

Khi đặt chung nhiều bài thơ được đánh giá là hay của Tố hữu với những bài: "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan, "Bên kia sông đuống" của Hoàng Cầm, "Lời mẹ dặn" của Phùng Quán, "Nhất định thắng" của Trần Dần ... nhiều nhà phê bình văn học cùng chung nhận định :Tố Hữu chỉ là một nhà thơ trung bình, suốt đời chỉ nói có một ý, nghĩ có một chiều và chỉ làm một việc duy nhất là tôn vinh cho lý tưởng cách mạng
Lịch sử vốn công bằng, vay gì phải trả nấy, Tố Hữu đã vay quá nhiều vinh hoa phú quý ở đời từ sự bất hạnh khốn khổ ngoi ngóp của đồng nghiệp nên thơ đã mất chỗ đứng khi vănhọc nước nhà sang trang .
Rất có thể người ta nói là “ thơ phản động “ nhưng có điều nhiều bài thơ của Tố Hữu đã bị “ nhái “ phục vụ cho một nhu cầu khác :

Bầm ơi có rét không bầm
Hon-đa con cưỡi, gà hầm con xơi
Con thương bầm lắm bầm ơi
70, bầm vẫn phải ngồi nhá khoai

Hay :

Danh lợi đua chen được mấy ngày
Phù vân một thoáng gió xua bay
Thủy chung không dễ đâu bè bạn
Êm ấm hồn sao được phút giây
Đúng vậy còn gì đau khổ hơn
Đời chuyên khi dạy nỗi oán hờn
Còn đây một chút trong cỏ lạnh
Mới thấm nhân văn một tiếng đờn

Trong 100 chân dung các nhà thơ , Xuân Sách cũng họa chân dung Tố Hữu

Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Và :

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây

Hai khổ thơ của Xuân Sách được truyền khẩu và lan tỏa vì vừa là tên các tập thơ của Tố Hữu, vừa ám chỉ chất lượng thơ ca thời “ Ăn cơm nắm , ngủ rừng ..” không còn nữa , thay bằng biệt thự rộng rãi, bề thế 1,500 mét vuông mà nhạt nhẽo, ngược hoàn toàn với cảnh khốn cùng của các nhà thơ Việt Nam lúc ấy,
Trong bài ca mùa xuân 1961, Tố Hữu viết :

Mà nói vậy trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ ...


Bị nhại thành :

Tháng lương anh chia ba phần to nhỏ,
Anh giành riêng trả nợ phần nhiều
Phần cho em và phần để anh tiêu
Em xấn sổ thế cũng đòi sòng phẳng
Rồi hai đứa tay bo, hai thằng lỏng chỏng ...
Còi xe cấp cứu "ủ" váng đường
Khổ thơ đầu của bài Từ ấy,cũng bị xuyên tạc
Từ ấy nước tôi tràn lũ lụt
Màn trời, chiếu nước, khắp muôn nơi
Làng tôi là một đồi hoang hoá
Hết sạch hương và bặt tiếng chim ca ...

Cả bài thơ bốn khổ được các bậc tiên chỉ trong làng thơ, mỗi người góp một ý, sửa một câu, thành một bài mà nội dung ngược hẳn với bản sáng tác cũ :

Từ ấy trong tôi bừng chính trị
Một trời mưu kế cháy trong tim
Hồn tôi là một hầm giam giữ
Máu người dân và xác các nhà văn
Tôi đã là cha của mọi thằng
Là anh của một lũ háo danh
Là em của bọn người cơ hội
Không lương tâm, lừa dối mị dân
……
Cay đắng nhất là bài thơ cuối cùng Tố Hữu gửi lại cho đời, bị cánh nhà thơ, nhà báo sửa lại bằng cách thêm một dấu sắc vào hai chữ cho ở câu cuối rồi rỉ tai nhau lan khắp hội , ngoài phường :

Xin gửi bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ một nắm tro,
Thơ gởi cuộc đời, tro bón đất
Sống là CHO và chết cũng là CHO (!)

Sinh thời Trần Độ có khuyên Tố Hữu xin lỗi anh em văn nhân giai phẩm đã bị hàm oan bao năm trước đó, nhưng Tố Hữu đã không nghe dù biết hổ chết để da, người ta chết để tiếng. Ngày Tố Hữu chết, so sánh với cái chết của lão tướng Trần Độ , cựu chiến binh Hoàng Giáp viết :

Người đời vẫn gọi ông
Là tướng công Trần Độ
Người đời lại gọi hắn
Là cho - thêm sắc vào
Lễ tang ông không mời
Dân vẫn ào ạt tới
Lễ tang hắn cử người
Mà vắng ngơ vắng ngắt
Tài liệu ông, chúng bắt
Dân phát tận mây xanh
Tài liệu hắn, chúng đọc
Dân sửa lại chức danh ...

Giai thoại về một bài thơ

Nếu mỗi nghệ sĩ là một người thư ký của thời đại, theo quan niệm Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Thơ ông là biên niên sử cách mạng. Có thể lần theo dấu vết thơ ông mà tìm những bước thăng trầm của cách mạng, của kháng chiến.
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên là bài thơ khá nổi tiếng của Tố Hữu. Bài thơ cung cấp cho ta nhiều con số và những tư liệu lịch sử. Qua thơ mà ta biết cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài ba ngàn ngày. Chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc mở màn đến khi kết thúc thắng lợi là 56 ngày đêm….
Khi được hỏi về hoàn cảnh ra đời của bài thơ Tố Hữu kể :
Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên truyền. Suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ chỗ anh Trường Chinh, hoặc lại chạy sang bên Bộ Tổng, Quân uỷ trung ương, chỗ anh Văn, hỏi xem có đánh nhau ở đâu thì viết bài tuyên truyền….Lúc ấy khoảng 5h30 hay 6h chiều ngày 7-5. Rừng đã nhá nhem tối mới có điện từ chỗ anh Trường Chinh xuống. Mình mừng quá.
Cái chuyện Hoả tốc, hoả tốc - Ngựa bay lên dốc ấy là có thật. Đấy là con ngựa của chú liên lạc ở chỗ anh Trường Chinh. Và cũng chỉ có mỗi con ngựa với chú liên lạc, chứ làm gì có Đuốc cháy sáng rừng, với Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Khi viết thì mình viết thế. Viết thế mới tạo được không khí, chứ làm gì có lửa mà đỏ rừng đỏ bản. Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh, rừng núi tối mù mù. Chỉ có vài ngôi nhà ở triền núi xa xa có ánh lửa le lói... Thế mà mình viết Đuốc chạy sáng rừng / Loa kêu từng cửa. Cũng chẳng có loa đâu. Mà loa với ai…, nghe vui hỉ, nghe cũng rậm rật đấy chứ hỉ Này xem ra không thể tin cánh văn nghệ được đâu ... Phịa, toàn là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật, nên người ta cũng tha cho. …
… Để biết về Điện Biên mình hỏi mấy chú đã đến Điện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết mấy cái địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ và rất nhiều hoa mơ. Chỉ mang máng thế thôi. Và rồi những cái mang máng ấy, cũng chẳng biết sẽ để làm gì. Sau này khi viết, mình mới lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào. Nó mới thành: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam / Hoa mơ lại trắng vườn cam lạ vàng. Đấy, đơn giản thế đấy.
Thực tình, hai câu thơ mà Tố Hữu vừa nhắc đến, như nhắc đến một giai thoại vui kia, là hai câu thơ hay, nếu không nói là hay nhất trong bài. Đặt trong cái không khí của toàn bài, nó mới đắc địa, như người ta đang nghe một bản giao hưởng chát chúa toàn những kèn đồng, lại thấy vút lên mảnh mướt một tiếng sáo trúc đồng quê mát mẻ. Câu thơ ghép toàn những địa danh. Đưa địa danh vào thơ đâu có dễ dàng gì. Nhưng Tố Hữu có biệt tài trong cái kỹ nghệ ngày.
Địa danh vào thơ ông thường rất nhuần nhuyễn. ở đây, dường như nó không còn là địa danh nữa, nó là kỹ nghệ chơi chữ cao, chơi chữ mà không thấy dấu vết của việc chơi chữ, chỉ có hai câu thơ với tên rừng, tên núi cụ thể mà Tố Hữu đã kết được thành một vòng hoa rực rỡ sáu màu. Đấy là vòng hoa tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở chiến trường Điện Biên lịch sử. Xuân Diệu là người đã có công trong việc phát hiện ra cái vòng hoa thầm lặng đó.
Tố Hữu tâm sự :
Bài thơ Điện Biên được viết nhanh lắm. Sau chiến thắng, tôi lên Bác ngay. Lên xin ý kiến Bác xem cần tuyên truyền thế nào. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo: Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi. Sao các chú cứ rối lên thế. Ta đánh thì tất nhiên là sẽ thắng. Quân đội ta là quân đội quyết chiến, quyết thắng cơ mà. Bác khen các chú đánh giỏi. Nhưng đừng rối lên. Phải cảnh giác. Hết sức cảnh giác. Chiến tranh chưa kết thúc đâu. Kẻ thù ta bây giờ không phải là Pháp nữa, mà là Mỹ. Không khéo chuyến này, ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, gian khổ đấy, đừng có tếu.
Điều đáng kinh ngạc là Ông Cụ lại nói chuyện ấy ngay trong ngày chiến thắng Điện Biên. Tôi đã đọc một loạt những hồi ký viết về Ông Cụ ở thời điểm này, nhưng không thấy ai nói đến chuyện đó. Cũng trong cuộc gặp ấy, Ông Cụ bảo tôi làm tuyên truyền. Ông Cụ có bảo tôi làm thơ đâu, làm tuyên truyền động viên bộ đội đấy chứ. Tuyên truyền làm sao cho dân vui là được rồi. Tôi về, suốt đêm không ngủ được, cứ vẩn vơ mãi. Tôi nghĩ: tuyên truyền bằng thơ là tốt nhất. Thơ dễ phổ biến, dễ nhớ, dễ thuộc. Mình không nhận ra trận, nhưng cũng nghe lỏm được khối chuyện. Chỉ tội, chẳng biết Điện Biên ra sao. Rồi thì đèo Pha Đin, đèo Lũng Lô cũng chẳng thể hình dung được.
Tôi bèn đến hỏi Bác, Bác ngửa cái mũ lá ra: Điện Biên nó như thế này này. Nó là một lòng chảo. Đấy, cũng chỉ mang máng thế thôi. Thế rồi thì tôi viết, viết nhanh lắm, viết không đến hai ngày. Những gì mình nghe được về Điện Biên, mình cho vào thơ hết, cho nó có vần có điệu, vì nhịp thơ nó đi như thế. Lục bát thì còn phải cò cưa ký cưa, chứ ở đây, mình cho nó nổ lung tung lên, chẳng việc gì phải giữ đúng khuôn khổ. Có lẽ đây là bài thơ tự do nhất, viết sảng khoái nhất.
….Viết xong rồi, khi in ra Bác Hồ có đọc bài thơ này nhưng Ông Cụ chẳng nói sao cả. Chưa bao giờ Ông Cụ khen thơ tôi. Chỉ có anh Trường Chinh thì có khen, ví tôi với ông này, ông khác, nhưng anh ấy cũng nói tào lao cho vui thế thôi, còn Bác thì chưa bao giờ khen thơ tôi cả. Sau Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, tôi viết tiếp Ta đi tới và Việt Bắc...
… Về cái tên bài thơ ,lúc đầu mình lấy tên là Điện Biên Phủ. Nhưng sau nghĩ thấy không ổn. Điện Biên Phủ chỉ là một cái địa danh. Mình đổi thành Chiến thắng Điện Biên, cũng lại thấy vô duyên. Nghe nó như tên một bài báo. Mình đọc lại bài thơ, thấy có câu Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Thôi, lấy té luôn như thế cho rồi. Cái tên ấy hợp với không khí toàn bài . Thơ Trần Đăng Khoa có lẽ chẳng bao giờ có hoan hô đâu nhỉ. Còn tôi thì tôi cứ hoan hô. Tôi còn hô cả khẩu hiệu nữa cơ. Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Muôn năm, muôn năm Mác - Lênin. Đấy, tôi hô khẩu hiệu đấy, tôi chả sợ. Tôi muốn nói rằng: Không có cái gì là không thành thơ được. Tôi cho cả Nguyễn Văn Trỗi hô: Hồ Chí Minh muôn năm. Mà hô những ba lần kia.

Đây là thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Tố Hữu. Trong ba bài thơ viết cùng một giai đoạn ấy, Việt Bắc là một kiệt tác, dù còn lẫn mấy câu vè. Hai bài thơ còn lại cũng như phần lớn thơ Tố Hữu, sẽ bất tử nhờ lịch sử. Bởi nó đề cập đến những cái mốc lịch sử. Mỗi bài là một trang biên niên sử. Mà đề cập đến lịch sử, viết về lịch sử thì không ai bằng được ông. Chiến thắng Điện Biên đã qua 40 năm rồi, đã có hàng trăm bài thơ viết về sự kiện này, nhưng cho đến nay, quả thật vẫn chưa có bài thơ nào viết về Điện Biên vượt bài thơ ông. Cái hay của bài thơ không nằm trong câu chữ cụ thể mà nằm trong cái hơi chung của toàn bài

Có cuộc phỏng vấn như thế .

Tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa X Chưa bao giờ vấn đề đấu tranh chống tham nhũng lại được nói nhiều đến thế. Chưa bao giờ các đại biểu miền núi lại kêu gọi hãy “đừng bỏ rơi” đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao đến thế. Tố Hữu vào đến cửa Hội trường. Một đại biểu của tỉnh Tuyên Quang đang kết thúc bài phát biểu của mình bằng 4 câu thơ của ông
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa không?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng.”
Ông dừng lại như để nghe cho rõ. Phía bên trong Hội trường Ba Đình tiếng ông Ngô Đình Loan (đại biểu Bắc Ninh) đang sang sảng vang lên: “...Chúng ta đã nói hết cả ngôn từ rồi mà nạn tham nhũng vẫn không giảm...”. Các đại biểu Quốc hội đang thảo luận về chống tham nhũng.
- Vậy chống bằng cách nào? - NPV hỏi ông.
Ông không nói gì, đưa bàn tay phải lên ngang cổ họng mình, làm bộ kéo đến xoẹt một cái. Rồi ông nhìn NPV nheo mắt, tặc lưỡi: Cứ phải thế!
- Ở cái thời ông còn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tham nhũng có trầm trọng như vậy không?
- Trước đây, khi còn chiến tranh, từ trên xuống dưới, ai ai cũng lo đánh giặc. Đánh giặc xong rồi ai cũng lo bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Bây giờ là thời buổi kinh tế thị trường, phức tạp nhiều hơn...Nói rồi ông trầm ngâm. Rồi ông trăn trở... Thấy ông có vẻ buồn, NPV chuyển sang đề tài khác:
- Nhiều người cứ tiếc rằng Tố Hữu ít làm thơ tình quá...
- Ở đời không nên dạy người khác phải yêu như thế nào. Tuy nhiên có thêm dăm bảy bài thơ tình nữa thì cũng tốt. Mà không có nữa thì đời cũng đã quá nhiều người làm thơ tình rồi. Đến như Xuân Diệu là tuyệt chiêu...
- Lại cũng có ý kiến cho rằng giá mà Tố Hữu chỉ theo một nghiệp thơ...
- Tôi cho rằng nói như vậy là ngộ nhận. Tôi đi làm cách mạng không phải là muốn hay không muốn, mà là cuộc đời vốn phải thế. Trong xã hội có người cầm cày, có người cầm búa, có người cầm súng, lại phải có người cầm bút chứ. Nếu người nào có khả năng gì thì nên sử dụng triệt để khả năng đó. Người ta nói: “Chính trị tức là nghệ thuật sử dụng khả năng”. Tôi làm chính trị tức là sử dụng khả năng làm thơ của mình để làm cách mạng.
“Có khổ đau nào đau khổ hơn / Trái tim tự xát muối cô đơn...”.
- Gần đây ông hay viết những câu thơ đại loại như vậy. Phải chăng ông đang cảm thấy cô đơn?
- Không! Không đâu, tôi không cô đơn. Ngay cả khi tôi nói tôi cô đơn thì đấy cũng chỉ là tiếng một con chim gọi bạn mà thôi. - Trầm ngâm một lúc, ông quay sang hỏi tôi,- Này, cậu có biết không, một con gà trống dậy sớm hơn những con khác, nó cất tiếng gáy. Ban đầu là tiếng gáy cô độc, sau đó có vài con gáy theo và cuối cùng là cả bầy gà cùng gáy. Đấy, cô độc mà có cô đơn đâu?
- Nhưng thực tình thì ông có sợ cảm giác cô đơn không?
- Trên đời này ngoài cái chết và cái đói ra, thì đau khổ nhất của con người là cô đơn. Cô đơn nghĩa là mình không có bạn. Cái đó đừng trách đời mà hãy tự trách mình. Đời đáng yêu lắm lắm. Đời luôn rộng mở cho tất cả mọi người đến với nhau. Chỉ vì anh quay lưng lại với đời nên anh mới cảm thấy cô đơn mà thôi. Nhưng mà “Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm/ Ta vẫn là ta ta với ta”. Cái quan trọng nhất anh có luôn là anh hay không mà thôi. Tố Hữu luôn là Tố Hữu, với mọi người và với nhân dân.
- Tại sao gần đây ông hay nhắc tới hai tiếng NHÂN DÂN?
- Thế tôi hỏi cậu nhân dân đã thực sự sung sướng chưa?
- Có thể chưa phải là lúc để tổng kết cuộc đời mình, nhưng nếu nhìn lại quãng đời đã qua thì có điều gì “đáng ra phải quên đi” mà ông lại cứ nhớ, còn những điều gì “ đáng ra phải nhớ” mà ông lại quên không?
- Thực ra thì tôi nhớ cả những điều đáng ra phải quên đi và không bao giờ quên những điều đáng nhớ.
- Trong những điều “đáng ra phải quên đi” ấy thì có điều gì mà cho ông làm lại từ đầu ông sẽ làm khác đi không?
- Nhiều, nhiều chứ! Ví dụ, trước đây tôi không tài nào chịu nổi 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Gió lùa gian gác xép/ Đời tàn trong ngõ hẹp”, mặc dù 2 câu thơ này rất hay. Hay lắm!. Đáng ra lúc ấy mình phải hiểu, phải thông cảm. Đấy là nỗi đau của một tâm hồn bế tắc. Đáng ra mình phải thương họ, phải hướng dẫn họ cùng tham gia cách mạng với mình để khỏi “Đời tàn trong ngõ hẹp”.
- Trong núi thơ ca đồ sộ của mình nếu phải chọn chỉ một câu thôi thì ông sẽ chọn câu nào?
- Nói như người ta hay nói: “Câu hay nhất là câu tôi chưa viết”, còn trong những câu tôi đã viết rồi thì có lẽ tôi chọn “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim”. Chả hiểu sao lúc ấy mới 17-18 tuổi mà mình lại viết được những câu như thế.
Nói rồi ông trầm ngâm. Dường như ông đang nhớ về thời trai trẻ tung hoành ngang dọc của mình, cái thuở mà “Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
- Trước đây, năm nào cũng vậy, mỗi khi mùa xuân tới Tố Hữu đều có một bài thơ. Liệu tết năm nay những người yêu thơ có còn được thưởng thức thơ Tố Hữu nữa không?
- Thơ là cảm hứng. Cảm hứng lên thì ghi lại. Mùa xuân là bắt đầu một thời kỳ mới, vì vậy cảm hứng thường xuất hiện. Hy vọng là cảm hứng sẽ xuất hiện trong tôi.
Ông nói, rồi chậm trãi đứng lên, lững thững đi vào Hội trường Ba Đình. NPV không đi theo ông, nhưng NPV hình dung rất rõ: ông vén tấm màn nhung đỏ che cửa, bước trên tấm thảm đỏ vào Hội trường, đi lại hàng ghế dành cho khách mời, lặng lẽ ngồi nghe, lặng lẽ ghi chép...


Hạnh phúc bên vợ hiền

Vào những năm bảy mươi của cuộc đời, nhà thơ Tố Hữu lấy bút danh Thương Hoa, đã viết về người bạn đời của mình: "Người ta vẫn nói, phía sau người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ tốt.
…Lễ cưới được tổ chức vào đầu tháng 8/1947. Đúng tháng mưa ngâu, trời mưa tầm tã. Tố Hữu đạp xe từ thị xã Thanh Hóa về Hoằng Hóa. Từ sáng sớm, lễ cưới đã được chuẩn bị trang trọng. Chủ tịch Ủy ban xã, các chị ở Hội phụ nữ đều đến dự. Nhưng sắp đến giờ cưới, vẫn chưa thấy chú rể đến. Từ thị xã về Hoằng Hóa có xa lắm đâu. Thanh lo lắng. Tố Hữu bao giờ cũng đúng hẹn. Mãi đến trưa, mọi người ngạc nhiên thấy chú rể và người đàn ông nữa lấm bùn bê bết từ đầu đến chân đang gột rửa quần áo ở ngoài bờ ao. Thì ra, anh Tố Hữu đã lặng lẽ đạp xe gần 60 cây số, đến nhà ông Đinh Quang Trường, một cơ sở cách mạng cũ của anh, nhờ ông làm đại diện họ nhà trai. Kỷ niệm ngày cưới Thanh còn nhớ mãi chiếc áo dài màu xanh lá cây chị Nghiên tặng
Sau lễ cưới, mọi người về hết, cô dâu, chú rể đang ngượng ngùng nhìn nhau thì cô em gái Thanh hớt hải chạy vào nhà:
- Mẹ bảo chị vào buồng trong ngủ với mẹ.
Đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ bị mẹ Thanh bắt ngủ riêng. Cô dâu ngủ với mẹ, chú rể ngủ một mình trên chiếc trường kỷ.
Sáng hôm sau ngày cưới, anh Tố Hữu đèo Thanh về cơ quan .Thị xã Thanh Hóa đang chuẩn bị kháng chiến chống Pháp. Nhà cửa bị phá gần hết. Chị cấp dưỡng của cơ quan tìm mãi mới bố trí được cho hai vợ chồng trẻ một “phòng hạnh phúc” trong cái nhà kho

Trong An toàn khu, Trung ương Đảng và Trung ương Hội Phụ nữ ở cách nhau mấy chục cây số. Hai vợ chồng công tác hai nơi. Anh làm công tác văn hóa ở Trung ương Đảng, chị làm công tác phụ nữ. Thỉnh thoảng họ mới được gặp nhau. Có hôm trời mưa rét, đường trơn, Thanh vẫn đến thăm anh như đã hẹn. Tuổi trẻ, chưa có kinh nghiệm, lại trèo đèo lội suối nhiều, Thanh bị sẩy mất đứa con đầu. Một lần, tiễn chị đi công tác, anh viết thơ tặng chị:

Mưa rơi dầm lá cọ
Mái tóc em ướt rồi
Đôi má em bừng đỏ
Muốn hôn quá... mà thôi.
Sợ mình em xấu hổ
Cầm hai bàn tay nhỏ
Xa nhau chẳng muốn rời.
...Ước gì anh hóa thành chim
Bay theo em, hót cho tim đỡ buồn.


Sau khi vào bộ đội một thời gian, mùa đông 1949, anh Tố Hữu bị ốm nặng. Thanh về ở hẳn Ban Tuyên huấn Trung ương chăm sóc anh. Dân trong vùng kiêng không cho vợ chồng ở chung trong nhà mình. Anh em văn nghệ sĩ giúp hai người che phên liếp xung quanh một cái chuồng bò dựng tạm, người ta chưa kịp mua bò. Cái chuồng bò trở thành tổ ấm của anh chị. Trời lạnh giá, gió lùa qua phên liếp.
Mỗi tháng một lần, anh Tố Hữu từ Thái Nguyên về Phú Thọ thăm vợ. Đi bộ một ngày đường, chỉ để gặp nhau một đêm, hôm sau chia tay sớm. Không có chỗ ở, anh chị làm một cái chòi trên đồi bằng cây sim và lá cọ. Cái phòng hạnh phúc có một không hai. Trong thời gian này, anh Tố Hữu làm bài thơ “Sợ”:

Đêm lạnh lều rơm không liếp cửa
Hai đứa mình ôm nhau trên sàn nứa
Nằm bên em nghe má ấm trong tay
Sợ tiếng gà gáy sáng hết đêm nay.


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, anh Tố Hữu về tiếp quản Thủ đô trước chị Thanh một năm. Anh viết bài thơ Việt Bắc trong thời gian xa cách. Anh gửi gắm nỗi nhớ vợ của mình trong sự lưu luyến chung của mọi người khi chia tay với căn cứ địa Việt Bắc. Nỗi niềm riêng chung ấy đã làm nên tác phẩm Việt Bắc với những câu thơ tình tuyệt đẹp:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.


Sau 9 năm làm đám cưới, chị có mang. Thanh mừng ứa nước mắt. Năm 1956, chị sinh con đầu lòng. Bác Hồ gửi tặng một tấm lụa chúc mừng anh chị. Sau đó chị sinh thêm 2 con nữa. Không khí gia đình càng êm ấm,
Thanh là độc giả đầu tiên của những bài thơ. Có khi chị còn gợi ý tưởng, từ ngữ cho anh. Kỷ niệm đáng nhớ nhất là anh viết bài Bác ơi sau khi Bác qua đời. Anh ngồi một mình trong phòng, vừa viết vừa đưa khăn thấm nước mắt. Thanh lặng lẽ thức đêm cùng anh.
Mấy tháng sau, anh bị ốm nặng. Bác sĩ chẩn đoán anh bị bệnh máu trắng. Nghĩ bệnh mình không chữa khỏi, anh quyết định phải làm một việc gì đó có ý nghĩa trong những ngày cuối cuộc đời. Một tháng sau, anh viết xong bài thơ Theo chân Bác. Viết xong, anh mệt quá, Thanh giúp anh chép lại bài thơ ấy. Thật lạ, sau đó, anh hồi phục dần và khỏi hẳn. Anh nói vui: “Có lẽ Cụ phù hộ mình”.
Vì bận công tác, anh ít có dịp tặng riêng vợ nhưng giữa dòng thơ cách mạng, anh dành cho chị những câu thơ tình rất hay:

... Trái tim anh đó
Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ và phần để em yêu.


Cho đến khi hai người tóc đã bạc, ở tuổi bảy mươi, anh mới dành được nhiều thời gian hơn bên vợ. Những vần thơ tặng vợ thật đằm thắm, sôi nổi:

Lạ chưa, vẫn ở bên em
Mà anh cứ nhớ, cứ thèm gần em...


Năm nào anh Tố Hữu cũng tự mình chuẩn bị ngày sinh nhật cho Thanh. Năm 1969, anh viết tặng chị bốn câu thơ:

Ngày em sinh Cách mạng tháng Mười
Em cho anh, nước Nga cho đời
Nguồn vui lớn với niềm vui nhỏ
Anh tặng em hai đóa hồng tươi.


Những ngày cuối đời, nằm trên gường bệnh, anh Tố Hữu vẫn nhớ ngày sinh nhật chị. Sau một thời gian dài bị hôn mê, tự nhiên, đến ngày sinh nhật Thanh, anh chợt tỉnh lại trong chốc lát. Anh mỉm cười và cố hết sức nắm bàn tay chị. Cho đến khi anh mất, bông hồng đỏ chưa kịp tặng chị vẫn nằm giữa hai bàn tay nắm hờ của anh

Phần Kết

Nhưng năm đầu Thế kỷ 21 Tố Hữu không khỏe , con người ông tập hợp một chút cô đơn, một chút mệt mỏi, một chút giày vò, một chút yếu đuối... Trong sân nhà ông xưa kia có một cây táo nhiều quả ngọt và nhiều gai sắc mọc lên đâu đó . Nhiều người đã đọc những câu thơ đẹp về những quả táo chín, và cũng đã nghe câu chuyện buồn về cây táo. Nhưng thời gian đã xoá đi mọi chuyện. Ngôi nhà của ông mà mới hơn mười năm trước đó mấy ai dám bước vào Thời gian vô hình mà thật quyền uy. Thời gian nhân ái và cũng thật độc ác , lặng lẽ xoá đi tất cả những gì cần xoá, cân bằng lại tất cả những gì phải cân bằng và phục sinh tất cả những gì đáng được phục sinh.
Những năm cuối đời, thơ Tố Hữu buồn và cô đơn tuy ông vẫn gắng sức trong nhiều câu thơ để tìm lại không khí náo nức ngày xưa. Nhưng những câu thơ lúc đó đã không nghe theo ý muốn của ông. Nói cho chính xác, những câu thơ lúc đó sinh ra từ cá nhân một Tố Hữu đơn thuần là một con người đang đi những bước cuối cùng về nơi cát bụi.

Ông là nhà thơ nhiều bạn đọc nhưng ít bạn bè. Khi ông nghỉ hưu, những người cần ông nhất thời không đến với ông nữa hoặc là rất ít. Những người yêu thơ ông vẫn mang mặc cảm trong lòng dù chỉ là mang máng: ông là một quan chức cao cấp. Ngay cả nhà thơ Phùng Quán, một người họ hàng của ông, cũng chỉ đến thăm ông khi ông trở về vị trí khởi đầu: Vị trí của một nhà thơ.Cuộc gặp gỡ này đã được báo Tiền Phong nhiều năm trước đây miêu tả. như là một cuộc gặp buồn của hai người họ hàng máu mủ, nhưng buồn hơn vạn lần là cuộc gặp của hai nhà thơ. Tại sao thi ca lại làm hai nhà thơ này chia cách? Vậy thì trong trường hợp này có gì đó lầm lẫn, thi ca lầm lẫn hay con người lầm lẫn? Hình như sau cuộc gặp đó, Tố Hữu và Phùng Quán chẳng bao giờ gặp nhau nữa. Chốn vĩnh hằng họ có gặp nhau không? Nếu họ gặp nhau, chắc cả hai không nói gì mà chỉ khóc. Cuối cùng thì cái chết và cõi vĩnh hằng cũng giúp họ hiểu ra tất cả và quên đi tất cả.

Tố Hữu có phải là nhà thơ cách mạng lớn nhất không? Đặt ra câu hỏi vậy thôi nhưng lại không cần phải trả lời nhưng chắc chắn ông là nhà thơ có nhiều bạn đọc nhất trong thời đại của ông. Ông đã sinh ra đúng thời và giọng nói của ông là giọng nói của thời đại ấy. Có hai người làm thơ sinh đúng thời nhất: Tố Hữu và Trần Đăng Khoa.

Phải phong Tố Hữu là người nghệ sĩ nhân dân mới đúng . Thơ ông là bài ca vui bất tận. Khi thơ ông bước vào cái tuổi sung sức nhất lại chính là lúc dân tộc Việt Nam sau bao năm làm thân phận nô lệ đã thành người tự do. Ai sống trong thời đại ấy cũng sẽ quên đi những nỗi buồn cá nhân để cất cao tiếng hát của mình trong bài ca độc lập của dân tộc. Trong niềm vui lớn lao của những năm tháng như những ngày hội lớn ấy, chỉ cần vỗ tay hay gõ hai cái thanh tre vào nhau chúng ta cũng có thể hát theo say đắm chứ cần chi đến một dàn nhạc lớn với những bản giao hưởng đồ sộ. Tố Hữu đã trở thành người lĩnh xướng trong dàn đồng ca ấy. Không ai vui như Tố Hữu, không ai đắm say như Tố Hữu và cũng không ai tin tưởng như Tố Hữu trong những năm tháng ấy. Ông là nhà thơ chân thành nhất và hiện thực nhất trong các nhà thơ cùng thời.
Giai thoại Trần Đăng Khoa có ý chữa câu thơ “Đường ta rộng thênh thang tám thước” phải viết là “Đường ta rộng thênh thang ta bước”. Nhiều người nghe chuyện chữa thơ đó thì trầm trồ thán phục cậu bé Khoa . Nhưng ngày ấy Trần Đăng Khoa còn quá nhỏ để hiểu con đường tám thước kia nó rộng đến nhường nào và hiện thực đến nhường nào.

Ngày ấy, dân ta mới được độc lập, khát vọng của người dân gần trăm năm làm nô lệ thì một con trâu, một miếng ruộng, một gian nhà nhỏ quả là sự không tưởng bấy lâu nay của họ. Trần Đăng Khoa lúc ấy còn nhỏ quá, anh có khả năng thiên bẩm với ngôn ngữ, nhưng anh không biết chi về nỗi thống khổ của dân cày. Trái tim anh lúc đó là trái tim của một đứa trẻ, có thể buồn vui tự bản năng chứ làm sao có thể sưng tấy bởi đau buồn những nỗi nhân gian.
Nhưng khi niềm vui ngây ngất của độc lập đã trở nên bình lặng hơn và chúng ta phải đương đầu với những thách thức mới thì tôi cảm thấy giọng thơ của Tố Hữu nhiều lúc trở nên lúng túng. Lúc đó, ông vẫn say đắm hát ca như thuở ban đầu trong khi nhiều trái tim của những người quanh ông đã có những nỗi buồn nhân thế.

Những năm cuối đời, giọng thơ Tố Hữu càng buồn bã hơn và pha cả sự cay đắng trong khi xã hội ngày càng giàu có hơn, văn minh hơn và dân chủ hơn. Bởi có lẽ lúc đó, Tố Hữu mới có thời gian để suy ngẫm về kiếp người nhiều hơn bao giờ hết. Đời ông có quá nhiều quan hệ bởi ông đã từng giữ những chức vụ quan trọng. Có lần ông thú thực rằng có những bài thơ của ông không hay mà nhiều người cứ viết khen đến ngượng.
Tố Hữu bắt đầu cô đơn từ khi nào? Thật khó mà biết được. Nhưng dựa theo “lý lịch của những văn bản” thì ông hình như chỉ bắt đầu cảm thấy cô đơn sau khi nghỉ hưu. Khi không còn chuông điện thoại của các ngành các bộ gọi tới, không còn phải đọc những công văn giấy tờ quan trọng, không còn những cuộc đi thăm địa phương này, trung tâm nọ; không còn phải dự hội nghị này, hội thảo kia, không còn kẻ nhờ việc này, người xin việc nọ...

Nhiều bài thơ ông viết trong thời gian đó không còn hay như trước nữa nhưng buồn. Đấy là một thay đổi rất khác biệt trong thơ ông. Những câu thơ buồn và phảng phất hoang mang chính là một cuộc “cách mạng” của tâm hồn ông.
Trong một cuộc hội thảo, ông nói với người chủ tọa rằng quy định mỗi người chỉ phát biểu năm phút nhưng hãy cho ông thêm hai phút nữa. Người chủ tọa trẻ cười và nói ông được nói thêm năm phút chứ không phải là hai.

Ông đã bắt đầu suy ngẫm về uy quyền của thời gian và về chính bản thân ông. Ông từng là một quyền uy nhưng với thời gian thì ông hay bất cứ sinh linh nào sống trên mặt đất này cũng chỉ là một hạt bụi. Ông là một nhà thơ nhưng không đủ sức sống một mình trong im lặng. Ông là một nghệ sĩ hát lên niềm vui của số đông nhưng lại không đủ sức hát về số phận của riêng mình. Khi bước vào tuổi tám mươi, ông mới thốt lên trong một hội nghị: Đến giờ tôi thừa nhận câu nói Bài ca hay nhất là bài ca tuyệt vọng là một chân lý để nói về nghệ thuật.

Nhưng ông đâu phải là người tuyệt vọng. Ông chỉ là một người mang nỗi “cô đơn xã hội”. Đây là cụm từ của tôi nhằm nói về nỗi cô đơn của một con người thấy vắng vẻ bạn bè, vắng vẻ người giao tiếp, vắng vẻ những quan hệ hành chính. Còn nỗi cô đơn thi sĩ, ông vẫn chưa kịp chạm tới. Nỗi cô đơn ấy là nỗi cô đơn ngay trong chính đám đông, trong chính sự giàu có và quyền lực, trong chính sự tôn vinh và khiếp sợ của vạn người.

Cuối cùng, như mọi kiếp người, ông đã giã từ đời sống về nơi cát bụi trong một ngày mùa đông giá rét. Ông không còn được lưu lại trên thế gian để đón thêm một mùa xuân nữa. Từ đây, những câu thơ viết về mùa xuân của ông mà có thời rất nhiều người đọc Việt Nam chờ đợi khi xuân tới sẽ chẳng bao giờ sinh ra. Trong cõi vĩnh hằng, những chuyện dở, chuyện hay chẳng còn quan trọng gì nữa. Vì nơi ấy, mọi đau khổ đều được chữa chạy, mọi tăm tối đều được chiếu sáng, mọi lầm lỗi đều được tha thứ, mọi sợ hãi đều được che chở, mọi tuyệt vọng đều được cứu vớt...


ST- BS & Giới thiệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét